Tìm kiếm tin tức
Chung nhan Tin Nhiem Mang
kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Đại tướng Lê Đức Anh (01/12/1920 - 01/12/2020) - Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ngày cập nhật 07/12/2020
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh đồng chí Lê Đức Anh là dịp để chúng ta ôn lại, tưởng nhớ, tôn vinh và tri ân những cống hiến to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc; tuyên truyền, giáo dục cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân, nhất là thế hệ trẻ học tập, rèn luyện theo tấm gương đạo đức cách mạng của đồng chí; nêu cao ý chí tự lực, tự cường, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, đoàn kết xây dựng quê hương, đất nước ngày càng văn minh, giàu đẹp và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Phần thứ nhất

QUÊ HƯƠNG VÀ GIA THẾ CỦA ĐỒNG CHÍ LÊ ĐỨC ANH

I. ĐÔI NÉT VỀ QUÊ HƯƠNG CỦA ĐỒNG CHÍ LÊ ĐỨC ANH

Đồng chí Lê Đức Anh (bí danh Nguyễn Phú Hòa, còn gọi là Chín Hòa, Sáu Nam), sinh ngày 01/12/1920 tại làng Trường Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế; quê quán ở làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên  Huế.

Làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc - quê quán của đồng chí Lê Đức Anh - nằm giữa vùng đầm phá và đồi núi, trên con đường thiên lý xưa (Quốc lộ I ngày nay) nên thuận lợi về giao thông, giao thương. Đây là một trong 10 làng của xã Lộc An, huyện Phú Lộc và cũng là làng lớn nhất của xã. Làng có lịch sử hình thành từ khá sớm, đã xuất hiện trong “Phủ biên tạp lục của Lê Quý Ðôn (viết khoảng sau năm 1774). Vào đầu thế kỷ XIX, theo ghi chép của địa bạ lập dưới thời Gia Long (1810 - 1818), Bàn Môn là một trong 23 làng của tổng Dương Nổ, huyện Phú Vang.

Mặc dù là một làng thuần nông, có truyền thống lâu đời về sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là truyền thống khai hoang, làm thủy lợi nhưng với địa thế ở vào vị trí nơi tận cùng của con sông Truồi giáp với vùng đầm phá Cầu Hai và vùng đồi núi ven ngọn núi Truồi, hàng năm lượng phù sa bồi đắp khá lớn, nên công cuộc khai hoang mở rộng diện tích canh tác, mở rộng làng xã có nhiều thành tựu và Bàn Môn nhanh chóng trở thành một làng lớn. Với điều kiện kinh tế khá giả, trong làng có nhiều dòng họ giàu có nên con cháu có điều kiện để ăn học và làm quan dưới các triều vua nhà Nguyễn, đóng góp cho đất nước, như: họ Hoàng có ông Hoàng Văn Diễn (1767 - 1854) làm đến chức Thượng thư Bộ Lại; họ Trần có ông Trần Ðình Túc (1807 - 1892) làm quan đến chức Thượng thư…

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Bàn Môn là nơi đã diễn ra nhiều hoạt động yêu nước và đấu tranh cách mạng mang tầm cỡ quốc gia và của tỉnh. Đầu thế kỷ XX, Bàn Môn là địa bàn tập hợp quần chúng nổi lên hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang phục Hội ở miền Trung do Thái Phiên, Trần Cao Vân lãnh đạo với sự tham gia của vua Duy Tân. Trong quá trình vận động chuẩn bị thành lập Ðảng Cộng sản Việt Nam ở Thừa Thiên Huế, Truồi đã trở thành một trung tâm và với sự vận động của Nguyễn Khoa Văn, Trần Hữu Duẫn, Trần Phạm Phương, Lê Bá Dị…, nơi đây đã trở thành nơi ra đời của chi bộ ghép hai huyện Phú Vang, Phú Lộc của Đảng Cộng sản… Bàn Môn cũng là nơi đã sản sinh ra những người con ưu tú, những thế hệ đảng viên đầu tiên trong tỉnh, như: Lê Trọng Uẩn, Lê Trọng Ngạc, Lê Thúc Khánh, Lê Nhã, Nguyễn Sơn...

Với truyền thống cách mạng kiên cường trên quê hương Thừa Thiên Huế, trải qua 30 năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, dù trong vùng tạm chiếm, nhân dân Bàn Môn vẫn một lòng một dạ theo Ðảng và đóng góp nhiều cho sự nghiệp cách mạng đến ngày thắng lợi, được Hội đồng Bộ trưởng tặng Bảng vàng “có công với nước” (năm 1988).

Quê quán ở làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc nhưng đồng chí Lê Đức Anh sinh ra và lớn lên ở làng Trường Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế - một làng quê nghèo bên phá Tam Giang. Ở đây, ruộng canh tác ít, đất cát rất khó để gieo trồng, người dân quanh vùng phải đi làm thuê khắp nơi để kiếm sống. Nạn đói, ốm đau, bệnh tật cộng với sự bóc lột hà khắc của chủ nghĩa thực dân, phong kiến nên đời sống Nhân dân hết sức khốn cùng. Ngày ngày, đồng chí đã được chứng kiến cảnh đói nghèo, lam lũ và khổ cực cũng như bị chèn ép, áp bức của người dân quê nơi đây.

II. GIA THẾ CỦA ĐỒNG CHÍ LÊ ĐỨC ANH

Đồng chí Lê Đức Anh sinh ra trong gia tộc họ Lê - một trong những gia tộc lớn của làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc - một gia tộc giàu truyền thống hiếu học, yêu nước và đấu tranh cách mạng trên quê hương Thừa Thiên Huế.

Gia tộc họ Lê của đồng chí Lê Đức Anh có nguồn gốc từ xã La Khê, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Nội, xứ Bắc Kỳ (nay là thủ đô Hà Nội). Ngài sơ tổ của họ là Từ Gia Diệu Tướng Lê Quý Công, húy là Bôi (Lê Ngọc Bôi). Ông chính là người đầu tiên vào lập nghiệp tại làng La Khê (Bao Vinh), huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế (nay là làng La Khê, xã Hương Vinh, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế) .

Trong gia tộc có nhiều tấm gương sáng về tinh thần hiếu học, cần mẫn, chịu khó nhưng cũng rất khí khái, hiên ngang, như: ngài Lê Văn Hoằng, đời thứ hai, làm quan đến chức Tri phủ từ đời Lê cho đến đời Nguyễn; ngài Lê Văn Thành, đời thứ bảy, làm tri huyện huyện Minh Linh tỉnh Quảng Trị, dưới thời Gia Long (1802 - 1819), vua nghe tiếng ông giỏi về nghề thuốc liền triệu về kinh, phong chức Y chính ở Thái Y viện… Cụ cố của đồng chí Lê Đức Anh là ông Lê Văn Trinh (1835 - 1915) cũng là một danh y tài giỏi, có tấm lòng nhân ái, hay cứu giúp người, được người dân địa phương làm vè ca ngợi…

Không chỉ là các bậc tiền nhân tiên tổ, các đấng sinh thành của đồng chí Lê Đức Anh cũng là những con người học cao, hiểu rộng, có cốt cách nhân hậu, sống chan hòa, nhân văn nhưng cũng rất kiên trung, bản lĩnh trong đấu tranh cách mạng để bảo vệ quê hương, đất nước. Ông Lê Quang Túy (1885 - 1969), thân phụ của đồng chí Lê Đức Anh là con trai trưởng, cũng là một thầy thuốc. Ông từng là đội trưởng phụ trách đội thuyền chở vua về trú tại làng Hà Trung trong cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang phục Hội ở miền Trung do Thái Phiên, Trần Cao Vân lãnh đạo với sự tham gia của vua Duy Tân. Thân mẫu của đồng chí Lê Đức Anh là bà Lê Thị Thoa (1886 - 1967), người làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc, là một người phụ nữ cần cù và chịu thương, chịu khó.

Ngày nay, tiếp nối truyền thống tốt đẹp của các thế hệ cha ông, con cháu dòng họ Lê không ngừng nỗ lực phấn đấu trong công cuộc xây dựng và phát triển quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, giàu đẹp, xứng đáng với sự hy sinh và lòng mong mỏi của các bậc sinh thành và tiền nhân.

Được sinh ra trong một gia tộc có truyền thống hiếu học và trên quê hương có truyền thống đấu tranh cách mạng, lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, Nhân dân lầm than, cơ cực, đồng chí Lê Đức Anh và các anh, chị, em của mình sớm được thừa hưởng truyền thống tốt đẹp của gia đình và quê hương. Chính tính nhẫn nhịn, chịu thương, chịu khó của phụ mẫu và người dân quê hương đã ảnh hưởng nhiều đến tính cách và chí hướng của đồng chí Lê Đức Anh và các anh, chị, em trong gia đình về sau này.

 

Phần thứ hai

TIỂU SỬ, QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG

NHỮNG CỐNG HIẾN TO LỚN CỦA ĐỒNG CHÍ LÊ ĐỨC ANH TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG VÀ ĐẤT NƯỚC

I. KHÁI LƯỢC TIỂU SỬ VÀ QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG CỦA ĐỒNG CHÍ LÊ ĐỨC ANH

Đồng chí Lê Đức Anh (bí danh Nguyễn Phú Hòa, còn gọi là Chín Hòa, Sáu Nam), sinh ngày 01/12/1920 tại làng Trường Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế; quê quán xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Năm 1937, đồng chí tham gia phong trào dân chủ ở huyện Phú Vang và  Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tháng 5/1938, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương; sau đó được tổ chức phân công phụ trách các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh.

Từ tháng 8/1945 đến tháng 10/1948, đồng chí giữ các chức vụ từ trung đội trưởng đến chính trị viên Trung đoàn 301. Từ tháng 11/1948 đến tháng 12/1950 là Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8 và Quân khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Từ năm 1951 đến năm 1954 là Tham mưu phó, Quyền Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ.

Từ tháng 5/1955 đến tháng 7/1963, đồng chí đảm nhiệm các chức vụ: Cục phó Cục Tác chiến và Cục trưởng Cục Quân lực, Bộ Tổng Tham mưu. Tháng 8/1963, đồng chí được bổ nhiệm Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ tháng 2/1964 đến năm 1968, đồng chí được giao giữ chức vụ Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Từ năm 1969 đến năm 1974, đồng chí là Tư lệnh Quân khu 9. Từ năm 1974 đến năm 1975 là Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh cánh quân hướng Tây - Tây Nam đánh vào Sài Gòn.

Tháng 5/1976, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Quân khu 9. Tháng 6/1978 là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, Chỉ huy trưởng Tiền phương Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây Nam. Tháng 6/1981, được bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia; Phó Trưởng Ban, rồi Trưởng Ban Lãnh đạo Đoàn Chuyên gia Việt Nam tại Campuchia.

Đồng chí được phong quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng năm 1974; được thăng quân hàm Thượng tướng năm 1980, Đại tướng năm 1984.

Tháng 12/1986, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ tháng 2/1987, là Phó Bí thư Đảng ủy quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Ngày 23/9/1992, Quốc hội khóa IX đã bầu đồng chí làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho đến tháng 12/1997.

Đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng các khóa IV, V, VI, VII, VIII; Bí thư Trung ương Đảng khoá VII; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa V, VI, VII, VIII; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ tháng 12/1997 đến tháng 4/2001; Đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII và IX.

Ngày 22/4/2019, đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh qua đời tại Nhà công vụ trong Trạm khách Bộ Quốc phòng (T66), số 5 Hoàng Diệu, Hà Nội.

Với 99 năm tuổi đời, hơn 80 năm tuổi Đảng, đồng chí Lê Đức Anh đã trọn đời phấn đấu, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và Nhân dân ta; được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều huân chương, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.

II. NHỮNG CỐNG HIẾN TO LỚN CỦA ĐỒNG CHÍ LÊ ĐỨC ANH TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG VÀ ĐẤT NƯỚC

1. Đồng chí Lê Đức Anh - người cộng sản kiên cường, suốt đời cống hiến, hy sinh vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của Nhân dân

Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, phải chứng kiến người dân nô lệ mất nước sống cơ cực dưới chế độ thực dân, phong kiến, đã hun đúc trong đồng chí Lê Đức Anh lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh cách mạng. Từ khi còn nhỏ, dịch đậu mùa đã làm một bên mắt bị mờ và một bên chân bị yếu cho đến tận sau này, nhưng ý chí và nghị lực mạnh mẽ đã thôi thúc đồng chí hăng hái tham gia hoạt động cách mạng và đi suốt các cuộc chiến tranh của dân tộc.

Năm 16 tuổi, đồng chí được giác ngộ và năm 17 tuổi chính thức tham gia hoạt động cách mạng ở địa phương, bắt đầu từ việc đọc sách, báo, tuyên truyền cho dân chúng, tham gia đấu tranh đòi giảm sưu thuế hà khắc của thực dân, phong kiến, đòi tự do, dân chủ ở làng quê. Năm 18 tuổi, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).

Cuối năm 1938, đầu năm 1939, thực dân Pháp thẳng tay khủng bố, đàn áp phong trào cách mạng; nhiều đảng viên và người yêu nước bị bắt. Tháng 10/1939, thực dân Pháp tiến hành khủng bố ở Thừa Thiên, hầu hết các đảng viên huyện Phú Vang bị bắt. Để bảo toàn lực lượng theo chủ trương của tổ chức cộng sản, đồng chí đã bí mật rời quê hương vào Đà Lạt hoạt động và sớm tìm đến với tổ chức cách mạng.

Đầu năm 1942, đồng chí rời Đà Lạt xuống đồn điền cao su Lộc Ninh, tiếp tục làm thuê kiếm sống. Tại đây, chứng kiến cuộc sống cơ cực của những phu cao su, đồng chí đã thực hiện tổ chức, củng cố đời sống vật chất, tinh thần và hâm nóng, thắp sáng trong họ lòng tự tôn dân tộc. Sau đó, đồng chí đã tìm cách bắt liên lạc với tổ chức và tiến hành giác ngộ, vận động, gây dựng và phát triển phong trào của phu cao su. Khi phong trào phát triển nhanh và vững ở đồn điền cao su Lộc Ninh, đồng chí đã mở rộng, phát triển phong trào đến các đồn điền lân cận, như: Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch.

Đồng chí đã trực tiếp giác ngộ hàng trăm phu cao su Lộc Ninh, tuyển chọn và kết nạp được bốn người, thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên do đồng chí làm Bí thư Chi bộ. Theo chỉ thị của Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, Chi bộ Lộc Ninh khẩn trương gây dựng, phát triển lực lượng, đẩy mạnh tuyên truyền cách mạng trong công nhân và Nhân dân vùng Hớn Quản. Ngày 23/8/1945, đồng chí Lê Đức Anh đã lãnh đạo công nhân cao su và đồng bào dân tộc ở Hớn Quản và Bù Đốp khởi nghĩa thành công, sau đó kéo quân về hợp điểm giành chính quyền ở tỉnh lỵ đêm 24/8 rạng sáng 25/8/1945.

Trong Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945, tại Hớn Quản, Đội võ trang do đồng chí Lê Đức Anh thành lập và chỉ huy có quân số hơn 100 người với cung nỏ khoác vai, bao tên đeo ngang hông mà Nhân dân trong vùng quen gọi là “Đội quân áo nâu”.

Những năm đầu hoạt động cách mạng sôi nổi với bao khó khăn, thử thách, đã tôi rèn đồng chí Lê Đức Anh trở thành người chiến sĩ cộng sản kiên cường, để suốt đời chiến đấu hy sinh vì lý tưởng cách mạng của Đảng, vì hạnh phúc của Nhân dân.

2. Đồng chí Lê Đức Anh - người chỉ huy quân sự tài ba, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, dạn dày kinh nghiệm trận mạc, có nhiều đóng góp trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và làm nhiệm vụ quốc tế cao cả

a. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược

- Đồng chí Lê Đức Anh tham gia thành lập, phát triển và chỉ huy các đội võ trang, hoạt động ở vùng Lộc Ninh, Hớn Quản, Bến Cát. Các đội võ trang ra đời và chiến đấu trong điều kiện vô cùng thiếu thốn, gian khổ, nhưng cán bộ, chiến sĩ đều kiên gan chịu đựng, đồng lòng quyết chí chống giặc, giữ quê hương. Là Tỉnh ủy viên kiêm Bí thư Quận ủy Hớn Quản và Chính trị viên Chi đội 1, đồng chí                   Lê Đức Anh đã cùng Ban Chỉ huy và cán bộ các ngành tăng cường giáo dục, động viên cán bộ, chiến sĩ vượt qua khó khăn, gian khổ. Chi đội 1 do đồng chí làm Chính trị viên nổi tiếng đánh giặc giỏi và có kỷ luật dân vận tốt. Khẩu hiệu “Không ra đi khi chưa trồng rau để lại cho người đến sau; không được đi khi chưa múc đầy ang nước; không đi khi nhà cửa chưa quét dọn sạch sẽ” đã trở thành nếp sống của bộ đội Chi đội 1. Ngày 14/6/1948, Chi đội 1 được quyết định đổi thành Trung đoàn 301 - phiên hiệu cấp trung đoàn đầu tiên ở Nam Bộ, đồng chí Lê Đức Anh tiếp tục được giao làm Chính trị viên.

- Cuối năm 1948, thấy được tố chất và khả năng tham mưu quân sự của đồng chí Lê Đức Anh, Xứ ủy Nam Kỳ điều đồng chí về làm Tham mưu trưởng Khu 7 - một địa bàn trọng điểm, nơi diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quân và dân ta với quân đội Pháp và tay sai. Từ đây, đồng chí chuyển từ một cán bộ chính trị sang làm cán bộ quân sự, chuyên lo xây dựng lực lượng, tổ chức chiến dịch, xây dựng và phát triển chiến thuật cho bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương. Dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh và cơ quan tham mưu, lực lượng vũ trang Khu 7 đã tổ chức nhiều trận đánh tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch.

- Cuối năm 1949, đầu năm 1950, quân Pháp liên tục mở các cuộc hành quân càn quét, uy hiếp vùng giải phóng phía Đông và Đông Bắc Sài Gòn - Gia Định. Đồng chí Lê Đức Anh đã đề xuất với Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Chợ Lớn: “Mở một chiến dịch tiến công trên địa bàn Bến Cát nhằm tiêu diệt sinh lực địch bằng cách đánh giao thông kết hợp với công đồn diệt tháp canh để đánh viện binh; tác chiến kết hợp với phá hoại để mở rộng khu căn cứ của ta”. Đề xuất trên đã được Bộ Tư lệnh đồng ý và giao đồng chí làm Tham mưu trưởng Chiến dịch. Sau một tháng chuẩn bị, chiến dịch Bến Cát đã diễn ra từ ngày 25/01 đến ngày 27/01/1950, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên địch, phá hủy 3 xe bọc thép, làm gián đoạn giao thông của địch. Chiến dịch Bến Cát và chiến dịch Cầu Kè, Trà Vinh (từ ngày 07 - 26/12/1949) là hai chiến dịch tiến công đầu tiên của lực lượng vũ trang Nam Bộ, làm thay đổi cục diện chiến trường - từ chỗ ta bị động đối phó với các cuộc hành quân càn quét của địch, sang chủ động tổ chức những trận tiến công có quy mô chiến dịch.

- Cuối năm 1952, đầu năm 1953, đồng chí Lê Đức Anh vinh dự cùng đồng chí Lê Duẩn ra Chiến khu Việt Bắc để báo cáo với Bác Hồ và Bộ Tổng Tư lệnh về kinh nghiệm chiến đấu. Nghe đồng chí Lê Đức Anh báo cáo, Bác Hồ rất vui, khen ngợi bộ đội và Nhân dân Nam Bộ đánh giặc giỏi. Sau khi tham dự lớp học chính trị do Trung ương tổ chức tại Chiến khu Việt Bắc, đồng chí Lê Đức Anh lên đường trở về miền Nam tiếp tục chiến đấu.   

b. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

- Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí Lê Đức Anh công tác ở Bộ Tổng Tham mưu với cương vị Cục phó Cục Tác chiến, Cục trưởng Cục Quân lực, rồi Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đây là thời gian đồng chí được tìm hiểu, học hỏi về các ngành, các công việc của công tác tham mưu chiến lược, nâng cao hiểu biết thực tế và phương pháp luận khoa học khi tiến hành công tác tham mưu quân sự; đồng thời tiếp tục được bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị. Cũng trong thời gian này, đồng chí cùng với đoàn cán bộ quân đội sang Liên Xô để tìm hiểu về phương pháp tác chiến của quân đội các nước Liên Xô, Đức, Pháp và Mỹ.

- Cuối tháng 12/1963, nhận nhiệm vụ cấp trên giao, đồng chí Lê Đức Anh bí mật lên đường vào chiến trường miền Nam trên con tàu “Không số”, mang theo ý kiến chỉ đạo của đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng và đồng chí Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng về xây dựng lực lượng cách mạng và hoạt động vũ trang. Những ngày đầu trở lại chiến trường miền Nam, tại Bộ Chỉ huy Miền, với cương vị Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam, đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều đề xuất quan trọng và trực tiếp soạn thảo, triển khai kế hoạch xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang. Đồng thời, đồng chí đã cùng cơ quan tham mưu tích cực tiến hành công tác chuẩn bị cho chiến dịch tiến công Bình Giã. Trong hơn một tháng chiến đấu tiến công, từ đêm ngày 02/12/1964 đến ngày 03/01/1965, chiến dịch Bình Giã đã giành thắng lợi to lớn, mục tiêu cơ bản của chiến dịch đặt ra đều thực hiện được.

- Bước vào mùa khô năm 1966 - 1967, Mỹ và tay sai mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, mà đỉnh cao là cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti (Junction City) đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu (phía Bắc tỉnh Tây Ninh) nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và chủ lực của ta, bịt chặt biên giới Việt Nam - Campuchia, mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn. Để vừa bảo toàn lực lượng, bám trụ trên địa bàn tác chiến không có dân, vừa đánh tiêu hao, tiêu diệt địch, Tham mưu trưởng Lê Đức Anh đã đề xuất: “Di chuyển những người và tổ chức thật cần thiết thuộc Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền đến nơi an toàn; lực lượng còn lại tổ chức thành các “huyện căn cứ”, các “xã căn cứ” để đánh địch tại chỗ, phát huy cao độ ưu thế của du kích chiến, kết hợp với các đơn vị chủ lực cơ động đánh vào bên sườn và phía sau đội hình quân địch”. Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền nhất trí đề xuất này và giao đồng chí Lê Đức Anh tổ chức lực lượng đánh địch tại chỗ. Sau gần hai tháng chiến đấu (từ ngày 22/02/1967 - 15/4/1967), ta đã loại khỏi chiến đấu hơn 14.000 tên và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch, bảo vệ vững chắc căn cứ, cơ quan đầu não kháng chiến, đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ - ngụy. Nói về nghệ thuật chiến dịch, đề xuất của đồng chí Lê Đức Anh trong chiến dịch này chính là đã tạo ra “thế trận chiến tranh nhân dân trên một địa bàn không có dân” để đánh địch. Thực tiễn, phương pháp tác chiến này đã phát huy hiệu quả và giành thắng lợi to lớn.

- Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đồng chí được phân công chỉ huy bộ đội ở hướng Tây Sài Gòn, từ Long An đánh vào Tổng Nha Cảnh sát và Cảnh sát đô thành Sài Gòn. Quá trình diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, trên cơ sở phân tích, đánh giá thấu đáo tình hình, đồng chí đã có những đề xuất quan trọng về chuyển hướng tiến công. Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã có ý nghĩa quan trọng, làm phá sản Chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh.

- Đầu năm 1969, đồng chí Lê Đức Anh được cấp trên giao nhiệm vụ Tư lệnh Quân khu IX. Trong điều kiện cách mạng miền Nam đang trải qua rất nhiều khó khăn, thử thách, trên địa bàn Quân khu IX, địch đã bình định lấn chiếm vùng giải phóng trước đây, chỉ còn căn cứ U Minh và khu giải phóng phía nam tỉnh Cà Mau, lực lượng và phong trào cách mạng giảm sút nghiêm trọng. Trước tình hình đó, đồng chí Lê Đức Anh (bí danh Chín Hòa) cùng đồng chí Võ Văn Kiệt (bí danh Tám Thuận) - Bí thư Khu ủy và các đồng chí trong Khu ủy, Bộ Tư lệnh đã lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức củng cố lực lượng, khôi phục lại thế và lực của Quân khu IX. Sau những nỗ lực vượt bậc và được sự chi viện to lớn của miền Bắc, lực lượng và phong trào cách mạng của Quân khu IX đã nhanh chóng được khôi phục. Đến năm 1971 - 1972, lực lượng vũ trang Quân khu IX đã liên tiếp nổ súng tiến công, đẩy lùi quân địch vào sát thị xã, thị trấn, bước đầu đánh bại Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ.

- Sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết (ngày 27/01/1973), ngụy quyền Sài Gòn ngang nhiên vi phạm Hiệp định, ráo riết thực hiện kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ”, đẩy mạnh bình định lấn chiếm. Trước tình hình đó, mặc dù chưa có chủ trương của trên về tiến công quân sự, song dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, sự chỉ huy trực tiếp, quyết đoán và dám chịu trách nhiệm của Tư lệnh Lê Đức Anh, quân và dân Quân khu IX đã chiến đấu ngoan cường, bẻ gãy các cuộc hành quân lấn chiếm quy mô cấp quân đoàn của địch đánh vào Chương Thiện, lần lượt đánh bại 75 tiểu đoàn cùng với kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ” của chúng.

Với những thành tích trong chỉ huy chống địch lấn chiếm, phá hoại Hiệp định Pa-ri năm 1973 trên địa bàn Quân khu IX và những thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giai đoạn 1964 - 1974, ngày 16/4/1974, đồng chí Lê Đức Anh được Chủ tịch nước ký quyết định phong quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng.

- Năm 1974, được giao đảm nhiệm cương vị Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, đồng chí Lê Đức Anh đã khẩn trương xây dựng kế hoạch tác chiến mùa khô 1974 - 1975; chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị chủ lực của Miền huấn luyện và hoạt động tác chiến theo kế hoạch mới, nhất là tập huấn cho bộ đội cách đánh công kiên. Cuối năm 1974, đầu năm 1975, đồng chí cùng Bộ Chỉ huy Miền đã chỉ huy các đơn vị liên tiếp tiến công địch trong các chi khu Bù Đăng, Bù Đốp, Đồng Xoài... tiến tới tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn quân địch ở Phước Long, thu toàn bộ vũ khí và phương tiện chiến tranh của chúng, giải phóng tỉnh Phước Long với hơn 50 vạn dân. Chiến thắng Đồng Xoài - Phước Long có ý nghĩa là “Trận trinh sát chiến lược”, làm sáng tỏ hơn những cơ sở để Trung ương Đảng hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976 khi thời cơ lớn đã mở ra.

- Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đồng chí Lê Đức Anh đảm nhiệm Phó Tư lệnh Chiến dịch kiêm Tư lệnh cánh quân tiến công trên hướng Tây - Tây Nam đánh vào Sài Gòn. Với tài thao lược và kinh nghiệm trận mạc được tích lũy trong suốt hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, đồng chí Lê Đức Anh đã tổ chức lực lượng, xác định các hướng, mũi tiến công, giao nhiệm vụ, hiệp đồng cụ thể, rõ ràng cho từng bộ phận; chỉ huy cánh quân đánh chiếm các mục tiêu theo kế hoạch tác chiến, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần làm nên chiến thắng oanh liệt của dân tộc.

c. Trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và cùng quân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng, tái thiết đất nước

- Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, tháng 5/1976, đồng chí Lê Đức Anh được phân công về làm Tư lệnh Quân khu IX (gồm Khu IX và Khu VIII cũ). Trên cương vị được giao, đồng chí đã chỉ đạo Quân khu tập trung giải quyết cùng lúc nhiều việc lớn, nhanh chóng tạo được sự ổn định, bảo đảm cho đời sống và các hoạt động trong toàn Quân khu đi vào nề nếp khi đất nước chuyển giai đoạn từ chiến tranh sang hòa bình. Đồng chí đã đề xuất và được Đảng ủy Quân khu quyết định giữ lại một sư đoàn thường trực, còn hai sư đoàn tổ chức đi làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế; như vậy được coi như đã giảm quân số thường trực nhưng vẫn giữ được quân số tại ngũ. Vì thế, khi quân Pôn Pốt xâm lấn biên giới Tây Nam, Quân khu IX đã chủ động đối phó, không bị rơi vào tình trạng bỏ trống địa bàn.

- Khi tập đoàn phản động Pôn Pốt gây chiến tranh xâm lược toàn tuyến biên giới Tây Nam, đồng chí Lê Đức Anh được điều động về làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu VII, kiêm Chỉ huy trưởng Tiền phương Bộ Quốc phòng ở Mặt trận Tây Nam. Thực hiện chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, đồng chí đã tích cực chỉ đạo Quân khu VII giúp bạn xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ngay trên địa bàn Quân khu.

- Sau khi các lực lượng của ta đánh tan quân Pôn Pốt xâm lược trên tuyến biên giới Tây Nam và cùng quân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng, đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều đề xuất thể hiện tầm nhìn và tư duy chiến lược về việc giúp bạn hồi sinh đất nước. Việc đầu tiên đồng chí đề xuất và được tập thể lãnh đạo nhất trí là bộ đội và chuyên gia của ta phải tập trung cứu đói, chữa bệnh cho dân, nhanh chóng khôi phục lại xã hội Campuchia, khôi phục lại sản xuất; vận động binh lính Pôn Pốt bỏ hàng ngũ, trở về với gia đình; giúp bạn xây dựng thực lực cách mạng để bạn tự đảm đương công việc của mình. Đồng chí đã chỉ đạo các đơn vị Quân tình nguyện cùng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đánh bại các cuộc phản kích và truy quét, làm tan rã một bộ phận lớn tàn quân Pôn Pốt, giữ vững thành quả cách mạng; đồng thời giúp bạn xây dựng công trình phòng thủ biên giới mang tên “K5” dài 800 km.

- Trong những năm làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia - một nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp, mang tính đặc thù, với biết bao gian nan thử thách, đồng chí Lê Đức Anh luôn quan tâm giáo dục, động viên bộ đội và chuyên gia vượt qua khó khăn, gian khổ, hy sinh để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế cao cả. Dưới sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của đồng chí Lê Đức Anh, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam cùng quân và dân Campuchia đã thực hiện thắng lợi ba mục tiêu chiến lược của cách mạng Campuchia được xác định trong Nghị quyết số 39 ngày 15/2/1983 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, đó là: (1). Tiếp tục làm cho quân Pôn Pốt tan rã, suy tàn hơn nữa; (2). Tiếp tục xây dựng thực lực cách mạng Campuchia mạnh hơn cả về số lượng và chất lượng, đủ sức đảm nhiệm cuộc đấu tranh thắng lợi với mọi kẻ thù, bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng, bảo vệ và xây dựng đất nước; (3). Bảo đảm đoàn kết liên minh chiến lược, chiến đấu Campuchia - Việt Nam trên một thế vững chắc hơn và mạnh hơn.

Sau này, đánh giá sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Campuchia, Thủ tướng Chính phủ Campuchia Hun Sen nói: “Không có sự giúp đỡ của Việt Nam, chúng tôi sẽ chết. Không có sự giúp đỡ của Việt Nam, Chính phủ Phnom Pênh sẽ không tồn tại”

Với thành tích xuất sắc trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và cùng quân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng, tái thiết đất nước, đồng chí Lê Đức Anh được thăng quân hàm từ Trung tướng lên Thượng tướng vào tháng 01/1980 và thăng quân hàm Đại tướng tháng vào tháng 12/1984. 

3. Đồng chí Lê Đức Anh - nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, với nhiều dấu ấn nổi bật trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

- Ngày 07/12/1986, đồng chí Lê Đức Anh nhận quyết định giữ chức              Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Đến ngày 16/02/1987,              Bộ Chính trị và Hội đồng Nhà nước đã quyết định bổ nhiệm đồng chí Lê Đức Anh làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Với trọng trách mới, đồng chí đã có những đề xuất xác đáng với Bộ Chính trị về giải quyết vấn đề biên giới, và từ vấn đề biên giới để định ra chiến lược và sách lược của công tác đối ngoại.

Đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều đóng góp quan trọng trong xúc tiến bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Cuối tháng 7/1991, với tư cách là phái viên của Bộ Chính trị, đồng chí sang thăm Trung Quốc để trao đổi những vấn đề cụ thể việc bình thường hóa quan hệ hai nước. Sau chuyến đi này của đồng chí Lê Đức Anh, từ ngày 05 đến ngày 10/11/1991 đã diễn ra chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt dẫn đầu, theo lời mời của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân và Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Bằng. Đây là mốc đánh dấu chính thức bình thường hóa và mở ra một trang sử mới trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc, khép lại nhiều năm đối đầu căng thẳng.

Đồng chí Lê Đức Anh đã chú trọng việc điều chỉnh bố trí chiến lược quốc phòng. Theo đó, Quân đoàn 3 được điều lên đứng chân ở Tây Nguyên, kịp thời đẩy lùi hoạt động của bọn phản động, tạo môi trường ổn định cho Tây Nguyên phát triển kinh tế; đội hình bố trí lực lượng của các quân, binh chủng được điều chỉnh thích hợp; tăng cường phòng thủ biển, nhất là khu vực quần đảo Trường Sa.

Đồng chí đã đề xuất với Đảng, Nhà nước và trực tiếp chỉ đạo giải quyết nhiều vấn đề lớn, quan trọng về quân sự, quốc phòng, như: thực hiện giảm quân số thường trực, giảm ngân sách quốc phòng trong tình hình nền kinh tế bị khủng hoảng; tiến hành các chính sách cụ thể để cải thiện đời sống bộ đội, giải quyết việc làm cho quân nhân xuất ngũ, thực hiện chính sách hậu phương quân đội; chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh Nhân dân trong tình hình mới... 

Đồng chí đặc biệt quan tâm và có tầm nhìn chiến lược về phòng thủ, bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Ngày 06/11/1987, đồng chí ký Mệnh lệnh số 1679/ML-QP về việc bảo vệ quần đảo Trường Sa; đưa lực lượng ra đóng giữ các bãi cạn chưa có người, trước mắt đưa ngay các lực lượng ra đóng giữ Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ để khai thác và sẵn sàng bảo vệ đảo. Ngày 07/5/1988, phát biểu tại cuộc mít-tinh kỷ niệm 33 năm Ngày truyền thống Quân chủng Hải quân (07/5/1955 - 07/5/1988) được tổ chức tại đảo Trường Sa Lớn, đồng chí nhấn mạnh: “Chúng ta xin thề trước hương hồn của tổ tiên ta, trước hương hồn của các cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau: “Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta”. Ngày 29/5/1989, Mệnh lệnh số 167/ML-QP về đóng giữ, bảo vệ khu vực biển thềm lục địa, các bãi đá ngầm (khu DK1) của      Việt Nam; trên cơ sở đó, từ tháng 6/1989 đến tháng 11/1990, Quân chủng Hải quân đã khắc phục mọi khó khăn, thực hiện sự tiếp tục có mặt của Việt Nam trên thềm lục địa 60.000 km2 thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, phù hợp với Luật Biển quốc tế năm 1982.

- Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991), đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX (tháng 9/1992), đồng chí được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên cương vị Chủ tịch nước, đồng chí đã có nhiều công lao, cống hiến to lớn với nhiều dấu ấn nổi bật cả về đối nội và đối ngoại.

Về đối nội, Chủ tịch nước Lê Đức Anh và các đồng chí trong Bộ Chính trị đã dồn hết tâm lực cho công việc với quyết tâm và cố gắng cao nhất, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, phát huy mọi động lực mới, khai thác mọi tiềm năng để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống Nhân dân.

Cùng với việc phấn đấu hoàn thành các công việc về công tác xây dựng pháp luật, công tác cán bộ, công tác tiếp dân, công tác thi đua - khen thưởng..., Chủ tịch nước Lê Đức Anh thường tận dụng quỹ thời gian của mình đến các địa phương để nắm bắt tình hình thực tế ở cơ sở, nhìn rõ những thuận lợi cần khai thác, những khó khăn cần tháo gỡ. Đặc biệt, sau khi đề xuất và được Bộ Chính trị đồng ý, đồng chí đã ký Lệnh số 36L/CTN, ngày 10/9/1994 công bố Pháp lệnh quy định Danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người tham gia hoạt động kháng chiến, người có công với cách mạng. Cũng kể từ đó, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, xây dựng nhà tình nghĩa và nhận phụng dưỡng suốt đời các Bà mẹ Việt Nam anh hùng và xây dựng “Quỹ đền ơn đáp nghĩa”, toàn dân chăm sóc gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng được hưởng ứng sôi nổi, rộng khắp trong cả nước, thể hiện sâu sắc đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam.

Về đối ngoại, thấu suốt đường lối đối ngoại của Đảng, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã có nhiều đóng góp quan trọng trên lĩnh vực đối ngoại của đất nước, nổi bật là việc xúc tiến bình thường hóa quan hệ với Mỹ và thúc đẩy Việt Nam gia nhập ASEAN. Bằng những nỗ lực của hai bên, sáng 12/7/1995 (theo giờ Việt Nam), hai nước tuyên bố bình thường hóa quan hệ. Tháng 10/1995, Chủ tịch nước Lê Đức Anh sang New York dự Lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Liên Hợp quốc; đồng chí trở thành Nguyên thủ quốc gia đầu tiên của Việt Nam đặt chân tới Mỹ. Cùng với xúc tiến bình thường hóa quan hệ với Mỹ, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã có nhiều đóng góp cho tiến trình thúc đẩy để Việt Nam gia nhập ASEAN vào ngày 28/7/1995.

Đồng chí Lê Đức Anh đã cùng Bộ Chính trị chỉ đạo sát sao các bộ, ngành để mở rộng quan hệ với các nước. Sau khi Việt Nam và Mỹ bình thường hóa quan hệ, hàng loạt các quốc gia tìm đến Việt Nam để tìm hiểu và hợp tác, đầu tư về kinh tế và khoa học công nghệ. Cũng trong nhiệm kỳ này, thay mặt Nhà nước và Nhân dân ta, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã đi dự một số hội nghị quốc tế quan trọng; thăm chính thức và làm việc với 13 nước trên thế giới; đón tiếp 26 nguyên thủ quốc gia thăm hữu nghị chính thức và nhiều đoàn khách quốc tế tới thăm Việt Nam; tiếp nhận 90 đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài tại Việt Nam và cử 57 đại sứ của nước ta tại các nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam; ký quyết định phê chuẩn 01 Hiến chương, 26 công ước, 5 hiệp ước, 35 hiệp định, 3 nghị định thư giữa Việt Nam với các nước và tổ chức quốc tế; trình Quốc hội phê chuẩn 1 Công ước theo quy định của Hiến pháp (Công ước quốc tế về Luật biển); ủy quyền đàm phán và ký kết một số điều ước quốc tế khác.

4. Đồng chí Lê Đức Anh - một nhân cách đức độ, giản dị, gần gũi, thẳng thắn, chân thành, giàu tình yêu thương con người

- Là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy ở tầm chiến lược, nhưng đồng chí Lê Đức Anh luôn xông xáo, không ngại hiểm nguy, luôn có mặt ở những nơi khó khăn để chỉ đạo cách giải quyết. Trong chiến đấu và trong công việc, đồng chí rất quyết đoán, thẳng thắn và nghiêm khắc, nhưng trong sinh hoạt đời thường, đồng chí thương yêu, quan tâm, chăm lo và sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi với cán bộ, chiến sĩ. Là Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, khi đến thăm đơn vị quân đội, đồng chí nói chuyện rất thân mật, gần gũi với các chiến sĩ trẻ. Đồng chí luôn động viên, giúp đỡ các cựu chiến binh khắc phục khó khăn; quan tâm chỉ đạo giải quyết tốt các chế độ chính sách.

- Giản dị, tiết kiệm, ghét thói khoa trương hình thức là đức tính vốn có của đồng chí Lê Đức Anh. Nhiều chuyến đi chỉ mình đồng chí và trợ lý, đồng chí không muốn những nghi lễ đón tiếp linh đình. Để nắm bắt tình hình thực tế, nhìn rõ những thuận lợi, khó khăn, đồng chí luôn lắng nghe để nắm bắt tâm tư, tình cảm của Nhân dân; bởi thế khi làm việc với lãnh đạo các địa phương, đơn vị, những ý kiến chỉ đạo của đồng chí rất sát đáng và phù hợp với thực tiễn. Đồng chí thường xuyên nhắc nhở lãnh đạo địa phương: “Chúng ta làm cách mạng để giành chính quyền cho nhân dân, chính quyền của dân, do dân, vì dân”; theo đó, cấp ủy, chính quyền địa phương phải có giải pháp thiết thực để bảo đảm các điều kiện phát triển sản xuất, bảo đảm quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân.

- Thoát ly và tham gia hoạt động cách mạng từ thời niên thiếu, nhưng đồng chí luôn nhớ về quê hương với một tình cảm rất sâu đậm. Mỗi lần về quê, đồng chí thường đi thăm bà con lối xóm, ân cần thăm hỏi cuộc sống, tình hình lao động sản xuất; động viên bà con, họ hàng, con cháu quê nhà chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy tinh thần thi đua yêu nước, tích cực lao động sản xuất để phát triển quê hương ngày càng giàu đẹp.

- Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều cống hiến cho Đảng, Nhà nước, Quân đội và Nhân dân, nhưng cũng suốt cuộc đời, đồng chí sống giản dị và vô cùng thanh bạch. Sống liêm khiết, giản dị đã trở thành thói quen và nếp sống của đồng chí ở bất kỳ hoàn cảnh, môi trường nào.

 

Phần thứ tư

ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN THỪA THIÊN HUẾ

HỌC TẬP VÀ NOI THEO TẤM GƯƠNG CỦA ĐỒNG CHÍ LÊ ĐỨC ANH

TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC

Thừa Thiên Huế từng là Kinh đô của Việt Nam thời nhà Nguyễn, là vùng đất có bề dày về lịch sử và văn hóa, được hình thành và phát triển cùng với tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Trong thời đại Hồ Chí Minh, người dân Thừa Thiên Huế luôn một lòng đi theo Đảng, bất khuất, kiên cường chống giặc ngoại xâm, hăng say trong lao động, sản xuất. Nhiều người con ưu tú của quê hương đã trở thành những chiến sĩ cộng sản trung kiên, cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, trong đó có Đại tướng Lê Đức Anh - Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông là một trong những người con ưu tú, tiêu biểu của quê hương Thừa Thiên Huế. Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế mãi mãi tự hào về nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, của Nhân dân, vị tướng tài ba, có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước và thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả.

Noi gương đồng chí Lê Đức Anh và các thế hệ lãnh đạo tiền bối của Đảng, với đặc điểm của một địa phương có Đảng bộ tỉnh ra đời sớm (tháng 4/1930), dù đứng trước muôn vàn khó khăn, phức tạp, Đảng bộ, quân và dân tỉnh Thừa Thiên Huế tiếp tục vững vàng, tự tin, đoàn kết một lòng bước vào các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược, cùng với cả nước làm nên những chiến công vang dội.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đáp lại lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng đồng bào cả nước, Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế anh dũng đứng lên tham gia kháng chiến và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu ở vùng sau lưng địch, phối hợp chia lửa với chiến trường Tây Bắc, góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.

Trong suốt 21 năm trường kỳ đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế đã đoàn kết, thống nhất, vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, không quản ngại hy sinh mất mát, chiến đấu anh dũng, kiên cường và đã làm nên những kỳ tích anh hùng. Nổi bật là trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, với chiến công lừng lẫy 26 ngày đêm làm chủ thành phố Huế, quân và dân Thừa Thiên Huế đã vinh dự được Ban Bí thư Trung ương Đảng biểu dương là một trong 3 ngọn cờ đầu của chiến tranh Nhân dân ở miền Nam chống Mỹ; được Bác Hồ gửi thư khen ngợi và Chính phủ tặng danh hiệu “Tấn công, nổi dậy, anh dũng, kiên cường”.

Trong cuộc Tổng tấn công nổi dậy Xuân 1975, phối hợp với các lực lượng và các mũi tiến công trên toàn miền Nam, quân và dân Thừa Thiên Huế đã nhất tề đứng lên, đập tan tấm lá chắn mạnh nhất của địch ở phía Bắc, góp phần quyết định vào thắng lợi của chiến dịch Huế - Đà Nẵng, tạo đà thần tốc chiến thắng trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử để giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Đất nước sạch bóng quân thù, Đảng bộ tiếp tục lãnh đạo Nhân dân bước vào sự nghiệp xây dựng quê hương. Với khối đại đoàn kết bền chặt và quyết tâm cao độ, Đảng bộ và Nhân dân Thừa Thiên Huế đã phấn đấu không ngừng, quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng lãnh đạo. Những nỗ lực khắc phục hậu quả chiến tranh và chung sức xây dựng quê hương trong chặng đường đầu đổi mới vừa bước đầu đơm hoa kết trái thì năm 1999, cơn đại hồng thủy đã cuốn đi biết bao thành quả, nền kinh tế - xã hội tỉnh nhà bị kéo lại nhiều năm, có những việc phải làm lại từ đầu. Tuy nhiên, được sự chi viện và quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, sự chia sẻ và hỗ trợ của cả nước và bạn bè quốc tế, Đảng bộ, quân và dân tỉnh nhà đã nỗ lực, đoàn kết, đồng tâm nhất trí, vượt khó vươn lên tiếp tục đạt được những thành tựu hết sức quan trọng và toàn diện. Nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững; văn hóa - xã hội tiếp tục phát triển; đời sống Nhân dân cải thiện rõ rệt; quốc phòng, an ninh được tăng cường và giữ vững; hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Thế và lực của tỉnh mạnh gấp nhiều lần so với trước, mở ra những tiền đề vững chắc để tiếp tục thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Đặc biệt, trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, trong bối cảnh thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường; ở trong nước, tác động của biến đổi khí hậu, sự cố môi trường biển, dịch bệnh… đã tác động nhiều mặt đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Song, được sự quan tâm, giúp đỡ của Trung ương Đảng, Chính phủ, các ban, bộ, ngành Trung ương, sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp, các ngành, sự nỗ lực, phấn đấu của toàn dân, Đảng bộ tỉnh tiếp tục gặt hái được những thành tựu quan trọng. Kinh tế duy trì ổn định và có sự tăng trưởng khá, bình quân ước đạt 6,5%/năm, cao hơn bình quân chung cả nước và một số tỉnh trong khu vực miền Trung; so với năm 2015, quy mô nền kinh tế tăng gấp 1,6 lần; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2020 đạt 2.169 USD, đứng thứ 3 của Vùng duyên hải miền Trung. Phát huy vị thế trung tâm văn hóa, du lịch đặc sắc của cả nước, trung tâm y tế chuyên sâu, trung tâm khoa học - công nghệ, trung tâm giáo dục - đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao; bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo, giải quyết việc làm gắn với bảo vệ môi trường. Thực hiện có hiệu quả đường lối và chính sách đối ngoại; góp phần nâng cao hình ảnh, vị thế của Thừa Thiên Huế trong thời kỳ hội nhập. Quốc phòng - an ninh được giữ vững; trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác xây dựng Đảng được chú trọng, Đảng bộ tỉnh trong sạch, ngày càng vững mạnh và đoàn kết; quan tâm chăm lo, xây dựng đào tạo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Kiên quyết ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên; các biểu hiện suy thoái “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ...

Xã Lộc An, cũng như huyện Phú Lộc - nơi đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách và định hình ý chí cách mạng của đồng chí Lê Đức Anh, luôn trăn trở lời đồng chí thường căn dặn. Trong những năm qua, Đảng bộ và nhân dân huyện Phú Lộc nói chung và xã Lộc An nói riêng đã xác định nhiệm vụ cốt lõi là phải xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tăng cường sự lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng, trách nhiệm và đạo đức của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, vì Nhân dân phục vụ; không ngừng nỗ lực thi đua lao động sản xuất, phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương để phát triển kinh tế, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị luôn được quan tâm và triển khai thực hiện tốt, nhiều năm liền Đảng bộ đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh.

Đặc biệt, được sự quan tâm, tạo điều kiện của Chính phủ, các ban, bộ, ngành Trung ương, tại làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc - quê nhà của đồng chí Lê Đức Anh, “Nhà văn hóa Đại tướng Lê Đức Anh” đã được xây dựng và sửa chữa lại khang trang, sạch đẹp. Đây là công trình thể hiện tình cảm yêu mến và tri ân sâu sắc của quân và dân Thừa Thiên Huế đối với những đóng góp của đồng chí Lê Đức Anh trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và của quê hương; là một "địa chỉ đỏ” để giáo dục truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau.

Từ một vùng đất đói nghèo và lạc hậu đắm chìm dưới sự thống trị của chủ nghĩa thực dân - phong kiến và đế quốc, sau hơn 90 năm dưới ánh sáng của Đảng, của Bác Hồ vĩ đại, Thừa Thiên Huế hôm nay đang ngày càng vững mạnh, đổi mới, hội nhập và phát triển. Những thành tựu đã được của Thừa Thiên Huế thể hiện tinh thần đoàn kết, ý chí quyết tâm cao của Đảng bộ, quân và dân toàn tỉnh, có sự xây dựng và hy sinh của đồng bào, chiến sĩ, cùng những người con ưu tú của quê hương.

Phát huy những truyền thống tốt đẹp của quê hương, của các thế hệ lãnh đạo tiền bối, Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế tiếp tục xác định nhiệm vụ xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để xây dựng và phát triển Thừa Thiên Huế đến năm 2025 trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trên nền tảng bảo tồn, phát huy giá trị di sản cố đô và bản sắc văn hóa Huế, với đặc trưng văn hóa, di sản, sinh thái, cảnh quan, thân thiện với môi trường và thông minh theo tinh thần Nghị quyết 54-NQ/TW, ngày 10/12/2019 của Bộ Chính trị về “Xây dựng và phát triển tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.

Gần 99 năm tuổi đời, hơn 80 năm tuổi Đảng, hoạt động ở nhiều vùng, nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực, trải rộng trên cả ba miền đất nước và được Đảng tin cậy giao phó nhiều trọng trách, dù ở đâu, làm công việc gì, ở cương vị nào, đồng chí Lê Đức Anh cũng luôn hết lòng vì Đảng, vì dân, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách, kiên định mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ và đã có những đóng góp to lớn cho Đảng, cho cách mạng. Trên bất kỳ cương vị công tác nào, đồng chí cũng luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với Nhân dân, giữ vững khí tiết, phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản, bản chất, truyền thống Bộ đội Cụ Hồ; không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trong công tác, đồng chí luôn đổi mới, quyết đoán, nhanh nhạy, bám sát thực tiễn, gần dân, chăm lo cho dân, dám chịu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và cũng rất giản dị, sâu sắc, nhân văn trong cuộc sống, được đồng chí, đồng đội và Nhân dân yêu mến, bạn bè quốc tế đánh giá cao. Đúng như Cố Tổng Bí thư Đỗ Mười đã khẳng định, “là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta”.

Hội Khoa học Lịch sử tỉnh, Hội đồng hương Phú Lộc - Thừa Thiên Huế tại thành phố Hồ Chí Minh: Hoàng Đức Trạch - Lê Bá Dị, Quê hương - Cuộc đời - Sự nghiệp, NXB Thuận Hóa, tr.46.

Theo gia phả họ Lê La Khê phụng tu năm Giáp Tuất, 1994. Tài liệu do gia đình cung cấp.

Truy từ hương phổ của làng La Khê (Hương Vinh), bản chữ Hán viết năm Tự Đức thứ 8 (1855), ghi những người có công đầu xây dựng làng xóm, trong 5 vị đứng đầu, họ Lê có 3 người là: ngài Từ Gia Diệu Tướng Lê Quý Công, ngài phó tướng Lê Lan và ngài chánh đề lãnh Lê Phú.

Tương truyền ông chữa bệnh sinh khó cho Hoàng thái hậu.

Đại tướng Lê Đức Anh, Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr. 286.

Đại tướng Lê Đức Anh, Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng, Sđd, tr. 296

Bộ Tổng Tham mưu - Cục Tác chiến, Lịch sử Cục Tác chiến (1945 - 2015), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2015, tr. 475.

Đại tướng Lê Đức Anh và nhiều tác giả, Bảo vệ, xây dựng và đổi mới đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 80.

Bộ Tổng Tham mưu - Cục Tác chiến, Lịch sử Cục Tác chiến (1945 - 2015), Sđd, tr. 477.

Đại tướng Lê Đức Anh, Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng, Sđd, tr. 337.

Tốc độ tăng trưởng GRDP năm 2020 biến động mạnh, ước đạt từ 2,87 - 3,77% (so với kế hoạch 7,5 - 8%).

Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2020 - 2025, Huế, 2020, tr.2.

Đại tướng Lê Đức Anh và nhiều tác giả, Bảo vệ, xây dựng và đổi mới đất nước, Sđd, tr. 273.

BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Truy cập tổng 5.005
Truy cập hiện tại 190